Học tiếng Việt miễn phí với người Sài Gòn.

Saturday, September 12, 2015

Vietnam - Cambodia border gate: American expat recounts Vietnam visa run nightmare


Cửa khẩu Việt Nam – Campuchia: Một người Mỹ sống và làm việc ở Sài Gòn thuật lại việc chạy visa Việt Nam như một cơn ác mộng

Cơn ác mộng = Nightmare                  Thuật lại = Recount
Người sống và làm việc ở nước ngoài = Expat
Sống = To live                                   Làm việc = To work
Campuchia = Cambodia
Việc chạy visa = Visa run
Người Mỹ = American



TuoiTreNews.vn - Editor’s note: Michael Tatarski, an American freelancer based in Ho Chi Minh City, retold his most recent visa run and explained why he did not hesitate to call it a nightmare. The story below reflects the author’s own view and experience.

Michael Tatarski, một người Mỹ làm nghề tự do ở thành phố Hồ Chí Minh, đã kể lại việc chạy visa gần đây nhất của anh ấy và giải thích vì sao anh ấy không ngần ngại gọi nó là một cơn ác mộng. Câu chuyện phản ánh góc nhìn và kinh nghiệm riêng của chính tác giả.


Giải thích = To explain
Ngần ngại / Do dự / Lưỡng lự = Hesitate
Cậu chuyện = Story
Phản ánh = Reflect
Kinh nghiệm = Experience
Góc nhìn riêng cùa chính tác giả = Author’s own view



As an expat who works as a freelancer, it appears to be impossible to obtain a Vietnamese work permit and the subsequent year-long visa. As a result I have to get a new visa on a regular basis. One way to do this is to go on a border run to Cambodia and back, which I did recently. The process was a complete nightmare, and illustrative of many of the problems with Vietnam’s tourism.

Là một người nước ngoài sống và làm việc tự do (hành nghề tự do) ở Việt Nam, việc lấy được giấy phép lao động và visa dài hạn là dường như không thể. Vì thế tôi luôn phải định kỳ  làm mới visa. Một cách để làm điều này là đi đến biên giới Việt Nam – Campuchia và trở về. Đây là cách mà tôi gần đây đã làm. Quá trình làm mới visa là một cơn ác mộng, và là sự minh họa cho nhiều vấn đề mà du lịch Việt Nam đang đối mặt.

Người làm nghề tự do = Người hành nghề tự do = Freelancer
Giấy phép lao động = Work permit
Visa dài hạn = Long-term visa
Không thể / Không thể làm được = Impossible
Làm mới visa = renew visa
Biên giới = Border
Quá trình = Process
Sự minh họa = illustration
Vấn đề = Problem
Đối mặt = To face


Local media have been full of recent stories lamenting Vietnam’s 12-month run of declining vistor numbers, although there was apparently an uptick in July. Officials, experts and members of the public have weighed in through multiple outlets, with some blaming pollution, scams and a lack of interesting tourism sites for the downward trend. Many, however, pointed to the inconvenient, expensive visa policies of the country, especially given the fact that many neighboring countries offer paid visas on arrival or, in the case of Thailand, Malaysia and Singapore, 30 days of free travel. Vietnam has recently waived visa fees for several countries, but the visas are only for 15 days, and the rest of us are still saddled with an infuriatingly bureaucratic and arbitrary process.

Truyền thông địa phương đầy những câu chuyện than van về sự sụt giảm số lượng du khách trong 12 tháng, mặc dù dường như có một sự gia tăng nhẹ về số lượng du khách trong tháng 7.
Các viên chức, chuyên gia tìm cách lý giải về khuynh hướng đi xuống của du lịch Việt Nam, một số đỗ lỗi cho ô nhiễm, lừa đảo và việc thiếu các điểm tham quan du lịch thú vị… Nhiều người, tuy nhiên, đã chỉ ra chính sách visa bất tiện và đắt đỏ, đặc biệt đã đưa ra thực tế về việc nhiều nước láng giềng Việt Nam cung cấp visa ngay tại cửa khẩu hoặc trong trường hợp của Thái Lan, Malaysia và Singapore là cung cấp miễn phí visa du lịch 30 ngày. Việt Nam gần đây đã miễn visa cho một số nước, nhưng các visa này chỉ cho (phép tham quan) 15 ngày , và phần còn lại của chúng ta vẫn phải đối mặt với quá trình làm visa mang tính độc đoán quan liêu gây điên tiết cho người đi làm visa

Sự gia tăng nhẹ = Uptick
Truyền thông địa phương = Local media
Than van = To lament
Ô nhiễm = Pollution
Lừa đảo = Swindle

Miễn visa = Waive visa
Arbitrary = tùy ý; chuyên quyền độc đoán
Bureaucratic = quan liêu
Gây điên tiết, làm điên tiết = Making one extremely angry



I took a public bus to the Moc Bai border gate with an approval letter for a three-month multiple-entry visa in hand. Walking into the customs hall, I was greeted by the sight of a mass of humanity in front of the exit counters, with no discernable queues formed. I overheard several conversations, and it was clear that no one knew what was going on. I stood in what I thought was a line, but after 20 minutes it had gone nowhere.

Với thư chấp nhận cấp visa 3 tháng ra vào nhiều lần trên tay, tôi (đã) đi xe buýt công cộng tới cửa khẩu Mộc Bài. Bước vào sảnh hải quan (khu vực /phòng làm thủ tục xuất cảnh), trước mắt tôi toàn là người với người đứng đầy nghẹt trước các quầy làm thủ tục xuất cảnh và không theo hàng lối gì cả. Tôi nghe lõm một vài cuộc đối thoại, và rõ ràng là không ai biết cái gì đang diễn ra. Tôi đã đứng ở nơi mà tôi nghĩ là vạch kẻ quy định, nhưng sau 20 phút, không còn gì là hàng lối vạch kẻ gì cả.

Thư chấp nhận (cấp visa) = approval letter
Ra vào nhiều lần = Ra vô nhiều lần = Multiple entries
Người với người = People and people = Many people
Nghe lõm = To overhear
Cuộc đối thoại = Conversation


Eventually I realized that the assistants from the tour buses lined up outside were taking the passports of every passenger up to the front to get stamped, while the passengers waited for their name to be called in a sweaty blob of humanity. Since I was traveling individually, this was of no use to me. Finally I decided to just walk up to the ‘Way for Foreigners’ counter and hand the stone-faced official my passport. He stamped it immediately, and I had wasted a half hour standing around for nothing. There were no signs explaining this process, and no one to ask for help.

Sau cùng tôi đã nhận ra rằng các nhân viên của các xe tour đã xếp/đứng thành các hàng ngang bên ngoài, và đang đưa/trình các hộ chiếu lên phía trước để được đóng dấu, trong khi các hành khách thì đứng chờ nghe đọc tên. Vì tôi đi tự do một mình nên với tôi việc này không có tác dụng gì cả (không hữu dụng). Cuối cùng  tôi đã quyết định đi lên “quầy dành cho người nước ngoài” và trao hộ chiếu cho viên chức hải quan có khuôn mặt lạnh như đá. Anh tan gay lập tức đóng dấu, và tôi đã lãng phí nửa tiếng đồng hồ đứng chờ đợi mà không có kết quả gì. Không có bảng chỉ dẫn giải thích quá trình làm thủ tục xuất cảnh gì cả, và không có ai để hỏi chỉ dẫn.

Nhận ra = Realize
Nhân viên = Staff
Xếp đứng thành hàng ngang = to line up
Đóng dấu = To stamp
Hành khách = Passenger
Quầy dành cho người nước ngoài = Counter for foreigner
Hộ chiếu = Passport
Khuôn mặt lạnh như đá = Stone-faced. (Khuôn mặt = face. Lạnh = to be cold. Đá = Stone)




Afterwards I breezed through the entrance and exit procedures on the Cambodian side in about 10 minutes, and a few of the officials there even smiled.

Sau đó, tôi đã hoàn thành dễ dàng thủ tục nhập xuất cảnh phía Campuchia trong khoảng 10 phút, và một vài viên chức ở đó thậm chí còn mĩm cười với tôi

Hoàn thành = To complete
Thủ tục = Procedure


It was time to re-enter Vietnam, and the entrance customs hall offered a familiar scene: dozens of visitors standing around aimlessly while the bus attendents tried to get numerous passports stamped. I knew what to do (or so I thought), so I wallowed through the crowd to the foreigners counter and handed over my passport, visa approval letter and visa fee. A man standing next to the counter said I had to actually buy the visa elsewhere, and he pointed left. Directly at a wall. I had no idea what this meant, but he wasn’t interested in explaining. I went back outside but saw no visa office. After wandering around I asked another official where to go, and he pointed in a slightly less vague direction. I found a cluster of buildings and in a courtyard came across the visa on arrival office. Once again, there was no signage for this, apparently you are supposed to just know it’s hidden back there. This is where the nightmare truly began.

Và giờ là lúc tôi tái nhập Việt Nam, và phòng làm thủ tục nhập cảnh bây giờ vẫn với một cảnh tượng tương tự: hàng tá khách tham quan đứng xung quanh một cách vu vơ/không mục đích trong khi các nhân viên của xe tour cố gắng đóng dấu các hộ chiếu. Tôi biết phải làm gì (hoặc tôi nghĩ như thế), vì vậy tôi đã cố gắng luồn qua đám đông để đến “quầy dành cho người nước ngoài” và trao hộ chiếu, thư chấp nhận cấp visa, và phí visa cho viên hải quan. Một người đàn ông đứng bên cạnh quầy đã nói với tôi rằng tôi đã mua visa ở đâu đó và anh ta chỉ tay về phía bên trái. Chỉ thẳng vào một bức tường. Tôi không hiểu nó có nghĩa gì nhưng anh ta không màng (them) giải thích. Tôi ra lại bên ngoài nhưng không thấy phòng (làm) visa. Sau khi đi lang thang/thơ thẩn một hồi, tôi hỏi một viên chức hải quan khác nên/phải đi đâu và anh ta chỉ về một hướng không rõ. Tôi thấy một cụm tòa nhà, và ở một cái sân trong tình cờ thấy văn phòng làm visa ngay tại cửa khẩu. Một lần nữa, không có bảng chỉ dẫn gì cả, cứ như thể bạn biết nó nằm ẩn ở đó. Đây là nơi mà cơn ác mộng thật sự bắt đầu.

Tái nhập = Re-enter
Cảnh tượng = Scene
Tương tự = Similar
Hàng tá = dozens
Một cách vu vơ/không mục đích = Aimlessly
Luồn qua đám đông = To get through the crowd
Đi lang thang, thơ thẩn = Wander
Không rõ / Mơ hồ = vague



I approached the visa window and handed my relevant documents to the angry-looking official on the other side. He took one look at my approval letter and simply grunted, ‘No!’ My heart sank. I asked why and he just waved his hand. An English-speaking bus guide came up and explained that the official claimed my letter was a photocopy, and not the original. I had received this letter directly from the immigration office in Saigon, and it was not a copy, but the official brushed me aside. I was now envisioning a life stuck in between the border posts of Cambodia and Vietnam.

Tôi đến gần cánh cửa phòng làm visa và trao các giấy tờ liên quan cho viên chức có vẻ mặt giận dữ. Anh ta nhìn lướt qua thư chấp nhận cấp visa của tôi và chỉ làm mỗi mộc việc là càu nhàu “Không phải”. Lòng tôi buồn rầu. Tôi hỏi tại sao và anh ta chỉ vẫy tay. Một hướng dẫn viên xe buýt nói tiếng Anh bước đến và giải thích rằng viên chức kia cho rằng thư chấp nhận làm visa của tôi là copy, không phải là bản gốc. Tôi đã nhận bức thư này trực tiếp từ văn phòng quản lý xuất nhập cảnh ở Sài Gòn, và nó không phải là bản copy, nhưng viên hải quan không chấp nhận. Và tôi mường tượng về việc bị mắc kẹt ở biên giới giữa Việt Nam và Campuchia


Giấy tờ liên quan / Tài liệu liên quan = Relevant documents
Càu nhàu / cằn nhằn = To grunt
Bản gốc /Nguyên bản = Original
Vẫy tay = wave hand
Văn phòng quản lý xuất nhập cảnh = Immigration office
Mường tượng = Envision
Bị mắc kẹt = Be stuck


The same bus guide told me to wait a while so the official could go to lunch, and then try again when he returned. I had no choice at this point, so I sat down in the heat and contemplated a future in international limbo.

Cũng là người hướng dẫn viên xe buýt đã bảo tôi đợi một chút cho viên hải quan đi ăn trưa, và khi viên hải quan trở lại thì thử liên hệ lại. Tôi không có lựa chọn nào khác, vì thế tôi ngồi xuống và nghĩ về tương lai tối tăm

Tối / tối tăm = Dark


A while later the official returned and handed me his phone, with someone who spoke English on the other end. The unknown man asked why I had photocopied my letter, as if this whole thing was my fault. I stated that I had done no such thing, and why did it matter anyway? The form still had the all-important red stamp and the signature of an immigration official. I wasn’t sure where this was going, but the official then randomly decided to actually approve my visa. I handed him US$95, the three-month visa price which is posted right next to the office, and then he demanded another $5 with no explanation. Was this a bribe? Probably, but at this point I didn’t care, although I do wish I had gotten the official’s name so I could try to report him.

Một lát sau, viên hải quan quay trở lại và trao tôi điện thoại của anh ta để nói chuyện với một người nào đó nói được tiếng Anh ở bên kia đầu dây.  Người đàn ông lạ bên kia hỏi tôi sao lại copy thư chấp nhận cấp visa như thể toàn bộ mọi việc là lỗi của tôi. Tôi nói rõ là tôi đã không làm việc như thế, và dù sao đi nữa thì việc này có vấn đề gì? Đơn vẫn có con dấu đỏ và chữ ký của viên chức xuất nhập cảnh. Tôi không chắc sự việc sẽ đi về đâu, nhưng viên chức hải quan đột nhiên quyết định chấp thuận visa của tôi. Tôi trao anh ấy 95 đôla Mỹ, giá của visa 03 tháng được niêm yết ngay tại văn phòng, và anh ta yêu cầu thêm 5 đô nữa mà không giải thích gì cả. Đây là tiền đút lót? Chắc là vậy rồi, nhưng vào lúc này đây tôi không quan tâm, mặc dù tôi ước tôi đã lấy/nhớ tên của viên chức đó để tố cáo anh ta.

Đơn = Form
Con dấu = Stamp
Chấp thuận / đồng ý = To approve
Yêu cầu = To demand
Tiền đút lót / Tiền hối lộ = Bribe
Tố cáo = To report



I hurried back to the customs hall and went straight to the foreigners counter with my fresh visa, but the official there (who also looked quite unhappy with life) pointed ambiguously into the crowd. I was getting very tired of people pointing at nothing, as if this provided good directions. I couldn’t figure out where I was supposed to go, and now there was a man following me around offering to take my passport to the counter to get it stamped. I said no, as this was something simple that I should be able to do myself, but it became clear that it’s impossible for an individual traveler to get their own passport to the counter. I relented, and he demanded $5. I was stunned; after overpaying for my visa I was now paying for a man to walk 10 feet to a counter. Everyone involved in the border process has their mouth to the money trough, and they are shameless in their exploitation of confused visitors.

Tôi nhanh chóng trở lại phòng làm thủ tục xuất nhập cảnh và đi thẳng tới quầy dành cho người nước ngoài với visa mới tinh, nhưng viên chức hải quan ở đó (người mà gương mặt nhìn chẳng vui vẻ gì với cuộc đời) chỉ nhập nhằng về hướng đám đông. Tôi rất mệt mỏi với những người chỉ trỏ tùm lum không rõ rang. Tôi không thể hình dung ra tôi sẽ đi đâu, và ngay lúc đó có một người đàn ông đi theo tôi đề nghị giúp tôi đóng dấu hộ chiếu. Tôi đã nói không bởi vì việc này quá giản đơn tôi có thể làm một mình, nhưng dường như rõ ràng là một du khách đi tự do một mình không thể mang hộ chiếu đến quầy làm thủ tục xuất nhập cảnh. Tôi dịu lại, và anh ta yêu cầu 5 đôla Mỹ. Tôi sửng sốt; sau khi trả quá cao cho tiền visa và bây giờ tôi đang trả tiền cho một người đàn ông chỉ để anh ta đi 10 bộ tới quầy làm thủ tục xuất nhập cảnh. Những ai  mà công việc của họ liên quan đến quá trình làm thủ tục xuất nhập cảnh cho người qua lại cửa khẩu có cái miệng”dính với” cái “máng tiền”, và họ không hề biết xấu hổ trong việc khai thác lợi dụng những người qua lại cửa khẩu đang bối rối…



Finally, stamped passport in hand, I left the awful customs hall as quickly as possible and was soon on my way back to Saigon. If this process was an advertisement for Vietnam, it was a horrible one. Every Vietnamese official I interacted with seemed miserable, if not downright mean. No one cares if visitors know what is going on, and they seem to have little interest in whether they make it into the country or not. I love living in Vietnam, but I can’t blame anyone if they don’t want to visit when an experience like this may welcome you.


Cuối cùng với hộ chiếu đã được đóng dấu trên tay, tôi cố rời khỏi cái phòng làm thủ tục xuất nhập cảnh càng nhanh càng tốt để trở vể Sài Gòn. Với tôi cái phòng đó là nơi thật kinh khủng tồi tệ. Nếu quá trình làm thủ tục xuất nhập cảnh này là một “quảng cáo” của Việt Nam thì nó thật sự là một quảng cáo “kinh tởm”. Mỗi một viên chức Việt Nam mà tôi đã tiếp xúc liên hệ đều vô cùng trịch thượng và “hành động” không cần úp mở. Không ai trong số họ quan tâm đến người qua lại cửa khẩu biết những gì đang diễn ra. Tôi thích sống ở Việt Nam nhưng tôi không thể nói gì hơn nếu một ai đó không muốn thăm đất nước này vì một tình huống tương tự có thể đang “chào đón” họ!

ICHAEL TATARSKI / www.tuoitre.vn


No comments:

Post a Comment

Followers